PMC – US National Library of Medicine -National Institutes of Health:

COVID-19 (Bệnh Coronavirus 2019) Cấu trúc và Cơ chế lây nhiễm của Virus

Bệnh Coronavirus 2019 (COVID-19) là một loại virus mới. Nó gây ra hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng. Hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng coronavirus 2 (SARS-CoV-2) là tác nhân gây ra một bệnh truyền nhiễm từ bề mặt đã lây nhiễm cho khoảng 4,7 triệu người tính đến ngày 17 tháng 5 năm 2020.  Các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cần có các phương án để hạn chế và kiểm soát sự lây lan của vi rút giữa họ và bệnh nhân.

COVID-19 là một loại vi rút RNA sợi đơn được bao bọc, dương tính, có đường kính khoảng 60 đến 140 nm. Spike glycoprotein S1 của vi rút liên kết bền chặt với thụ thể men chuyển angiotensin 2 (ACE2), cho phép xâm nhập vào tế bào chủ. Nhiễm COVID-19 tạo ra một cơn bão cytokine, viêm phổi nặng, suy đa cơ quan và cấp tính chấn thương tim.

Sự lây truyền vi rút xảy ra khi tiếp xúc hoặc lan truyền qua bắn phun trong không khí. Con đường lây lan phổ biến của vi rút này là qua bắn phun trong không khí hô hấp từ người bị bệnh. Trong khi nói, con người thải ra hàng nghìn giọt dịch miệng mỗi giây có thể tồn tại trong không khí từ 8 đến 14 phút. COVID-19 có thể phát hiện trong tối đa 3 giờ trên bề mặt, trong tối đa 4 giờ trên tiền xu, đồng, trong tối đa 24 giờ trên bìa cứng và trong tối đa 2 đến 3 ngày trên nhựa và thép không gỉ. Cần phải khử trùng các bề mặt có khả năng tiếp xúc với COVID-19 để ngăn chặn sự lây truyền.

Sử dụng chất khử trùng

Khi tiếp xúc với vi rút, chất khử trùng sẽ thay đổi lớp bảo vệ của protein, làm mất cấu trúc và kết tụ lại, tạo thành các đám protein với các vi rút khác. Cơ chế khử trùng liên quan đến việc phá hủy thành tế bào của vi khuẩn hoặc vi rút, cho phép chất khử trùng tiêu diệt hoặc làm mất khả năng hoạt động của chúng. Bài viết này sẽ tập trung nói về HOCl.

Axit Hypochlorơ

Một chất khử trùng, chất làm vệ sinh lý tưởng thì phải không độc hại khi tiếp xúc bề mặt, không ăn mòn, hiệu quả ở nhiều dạng khác nhau và giá thành phù hợp. HOCl có thể là chất khử trùng được lựa chọn cho coronavirus trong văn phòng phẫu thuật răng hàm mặt (OMS).

HOCl là một chất nội sinh ở tất cả các loài động vật có vú và có hiệu quả chống lại nhiều loại vi sinh vật. Bạch cầu trung tính, bạch cầu ái toan, thực bào đơn nhân và tế bào lympho B sản xuất HOCl để đáp ứng với tổn thương và nhiễm trùng qua enzym liên kết màng ty thể được gọi là “bùng nổ hô hấp nicotinamide adenin dinucleotide phosphate oxidase.” HOCl liên kết chọn lọc với lớp lipid không bão hòa và sau đó phá vỡ tính toàn vẹn của tế bào. Giữa các mức độ pH từ 3 đến 6, chiếm ưu thế là HOCl có đặc tính kháng khuẩn tối đa.

HOCl là chất oxi hóa mạnh. Trong dung dịch nước, nó phân ly thành H + và OCl–, làm biến tính và tập hợp các protein. HOCl cũng tiêu diệt vi rút theo phương pháp khử trùng Clo bằng cách cách tạo thành cloramin và các gốc tập trung nitơ, khiến đứt gãy DNA sợi đơn cũng như sợi đôi, tạo ra axit nucleic và vi rút vô hại.

Sự tập trung liên quan đến thời gian cần thiết để diệt virus

HOCl đã được chứng minh là vô hiệu hóa nhiều loại virus bao gồm coronavirus trong vòng chưa đầy 1 phút. Ở nồng độ 200 ppm, HOCl có hiệu quả trong việc khử nhiễm các bề mặt trơ mang norovirus và các virus đường ruột khác trong thời gian 1 phút tiếp xúc. Khi được pha loãng gấp 10 lần, dung dịch HOCl ở 20 ppm vẫn có hiệu quả trong việc khử nhiễm các bề mặt môi trường mang vi rút trong thời gian tiếp xúc 10 phút.

Các ứng dụng lâm sàng khác

Nhãn khoa HOCl được sử dụng trong điều trị viêm bờ mi bằng cách giảm tải lượng vi khuẩn trên bề mặt da quanh mi. Hai mươi phút sau khi sử dụng dung dịch vệ sinh nước muối có chứa HOCl ở 100 ppm, lượng vi khuẩn tụ cầu đã giảm hơn 99 %.

Màng sinh học

HOCl có thể hiệu quả để làm sạch bề mặt cấy ghép bị nhiễm màng sinh học. HOCl làm giảm đáng kể nồng độ lipopolysaccharide của Porphyromonas gingivalis khi so sánh với natri hypoclorit và chlorhexidine và được sử dụng tốt cho mô miệng. HOCl làm giảm đáng kể vi khuẩn trên bàn chải đánh răng; nó có hiệu quả như một loại nước súc miệng và khử trùng bàn chải đánh răng.

Chăm sóc vết thương

Trong một nghiên cứu lâm sàng về chăm sóc vết thương trong phúc mạc, bệnh nhân được rửa khoang phúc mạc với HOCl 100 ppm và rửa vết thương với 200 ppm. Quan sát không thấy tác dụng phụ nào.

HOCl đã được chứng minh là một tác nhân hiệu quả trong việc giảm số lượng vi khuẩn vết thương ở vết thương hở. Trong hệ thống siêu âm, HOCl đã làm giảm số lượng vi khuẩn từ 4 đến 6 log. Vào thời điểm đóng cửa hiện nay, số lượng vi khuẩn đã trở lại 10 đối với vết thương đối chứng được sử dụng bằng dung dịch muối nhưng vẫn ở mức 10 hoặc thấp hơn đối với vết thương được dùng HOCl. Hậu phẫu thất bại xảy ra với 80% bệnh nhân trong nhóm dùng dung dịch muối so với 25% bệnh nhân trong nhóm dùng HOCl.

Vệ sinh tay

Thuốc sát trùng tay có gốc cồn hoặc không chứa cồn có chứa các hợp chất kháng sinh. Chất khử trùng gốc clo, ở nồng độ từ 50 – 100 ppm, có hiệu quả chống lại vi khuẩn và vi rút. HOCl đặc biệt được sử dụng cho chất khử trùng tay có hiệu quả ở cường độ từ 100 – 200 ppm.

Ứng dụng bề mặt

Một nghiên cứu đã xem xét việc khử trùng các trung tâm phẫu thuật ngoại trú bằng HOCl. Sau khi làm sạch, các phòng trong nhóm nghiên cứu làm sạch và khử trùng HOCl có số lượng vi khuẩn thấp hơn đáng kể so với các phòng trải qua quá trình làm sạch và khử trùng tiêu chuẩn.

HOCl được áp dụng bằng cách phun hoặc sương mù

Phun sương mù là lấy dung dịch và tạo ra một lớp sương phun nhỏ, kích thước lý tưởng là nhỏ hơn 20 μm, để khử trùng một khu vực. Sương mù HOCl có hiệu quả cao trong việc khử trùng vi sinh vật trên bề mặt. 

Các dung dịch HOCl có tính diệt khuẩn với nồng độ >50 ppm. HOCl được đánh giá chống lại vi rút cúm gia cầm (AIV) ít gây bệnh, H7N1. Các dung dịch HOCl chứa 50-, 100- và 200 ppm clo ở pH 6. Phun HOCl làm giảm độ AIV xuống mức không thể phát hiện được (<2.5 log10TCID50/mL) trong vòng 5 giây, ngoại trừ dung dịch 50 ppm sau khi phun ở khoảng cách 30 cm. Khi các dung dịch HOCl được phun trực tiếp lên các tấm có chứa vi rút trong 10 giây, các dung dịch 100 ppm và 200 ppm sẽ bất hoạt AIV ngay lập tức. Dung dịch 50 ppm cần thời gian tiếp xúc ít nhất 3 phút. Những dữ liệu này cho thấy rằng HOCl có thể được sử dụng ở dạng phun để khử hoạt tính AIV. Khi bình xịt không được phun trực tiếp lên bề mặt chứa AIV, thì chỉ một lượng nhỏ dung dịch có cơ hội tiếp xúc với AIV. Cần ít nhất 10 phút tạo tiếp xúc để có hiệu quả.

Khả năng tạo ra các hạt nhỏ hơn của máy phun có thể giúp các phân tử của dung dịch lơ lửng trong không khí trong thời gian dài hơn vì tốc độ lắng của chúng sẽ thấp. Điều này có thể làm tăng khả năng dung dịch tiếp xúc với mầm bệnh và bất hoạt chúng. Do đó, phun sương được sử dụng phải có kích thước bình xịt nhỏ hơn 20 μm.

Add Comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *